1/ Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một giáo sư nổi tiếng của trường Y khoa đại học Sài gòn vừa từ trần ở tuổi 103. Các bác sĩ và các nhân viên y giới làm việc trực tiếp hay gián tiếp với giáo sư Ninh đều lên tiếng vinh danh ông. Ngoài ra còn có những bày tỏ hảo cảm ngoài y giới, từ những giao tiếp bên ngoài xã hội của giáo sư, qua những bài viết trong lãnh vực nhân văn của giáo sư mà người ta biết, rải rác trên các tạp chí đủ loại. Các tin tức còn cho biết rằng bác sĩ là “đệ tử ruột” của Giáo sư Ninh ở bệnh viện Nhi đồng Sài gòn đường Sư Vạn Hạnh. Và vì thế mới có những truyền miệng đi mấy chữ, là Ninh lớn, Ninh nhỏ. Điều này có đúng không? Bác sĩ có những nhận định gì thêm về chuyện này?
Read moreCHÔN MỘT CHẾ ĐỘ (Trần Thiện Phi Hùng)
Tôi đã khóc khi đọc bài viết này, tại sao quê hương tôi lại bị cộng sản cai trị? Quê hương Việt Nam của tôi đẹp biết bao, tại sao tôi lại yêu quê hương này nhiều như vậy chứ? Bao đau khổ của quê hương bởi hai chữ "cộng sản" mà ra…….
“Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi"……..
"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân"……
………
Read more“Giáo Dục Lòng Căm Thù” – Một Bi Kịch Của Nền Giáo Dục Hậu Chiến.( Phạm Tín An Ninh)
……..Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”. Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ. Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”.
…..Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”. Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.
Read moreThằng Khùng ( Phùng Quán)
………..Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Nguyễn Tuân. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ….. Tôì thì thầm qua nước mắt:…
Read moreNỗi Lòng Chinh Phụ (Bát Sách)
Nỗi lòng chinh phụ- Bát Sách
Hồi ở Việt Nam, Bát Sách có 7 năm lính. Ngày đó Bát Sách còn độc thân, sống rất tự do, thoải mái, chỗ nào cũng là nhà, ở đâu cũng vui. Tuy phóng túng, ham vui và hời hợt, Bát Sách lại rất yếu lòng, nên có những phút nghẹn ngào xúc động mà suốt đời không quên được: đó là lúc thấy những người vợ tay xách, nách mang, lếch thếch từ quê lên thăm chồng mà không gặp, vì chồng đi hành quân; đó là lúc thấy những người vợ nuôi chồng bị thương, ban đêm nằm co quắp dưới chân giường, thao thức; đó là lúc thấy những người vợ trẻ, mặt mày hốc hác, đầu quấn khăn tang, lên nhận xác chồng, nghẹn ngào khóc không ra tiếng ... Nỗi khổ của người lính VNCH sách vở đã nói nhiều, ai cũng biết. Nhân ngày quân lực năm nay, Bát Sách muốn nói đến nỗi khổ của vợ lính, nỗi lòng chinh phụ. Bát Sách vốn mê thơ Đường, nên trích hầu quí vị mấy bài, mong rằng không đến nỗi làm quí vị thất vọng.
Mở đầu là bài của Vương Xương Linh, có lẽ ai cũng biết :
閨怨 Khuê oán
閨中少婦不知愁 Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓。 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu,
忽見陌頭楊柳色, Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
悔教夫婿覓封侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu.
王昌齡 Vương Xương Linh
(Thiếu phụ trong phòng khuê không biết sầu; ngày xuân trang điểm bước lên lầu thúy, chợt thấy màu dương liễu xanh tươi ở đầu đường, hối hận rằng đã khuyên chồng đi tìm ấn phong hầu)
Bát Sách dịch
Phòng khuê nàng chẳng biết sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu lang thang,
Liễu tươi chợt thấy đầu đàng,
Hối sao lỡ dại khuyên chàng cầu danh.
Bài này âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ trang nhã, quí phái, nỗi buồn của thiếu phụ chỉ thoang thoảng như làn gió xuân lùa qua mái tóc. Bát Sách có cảm tưởng rằng nàng chỉ thấy cô đơn chứ chưa nhớ chồng tha thiết. Trong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn có mượn 2 câu cuối của bài này mà bà Đoàn thị Điểm dịch như sau:
Chợt ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Ngày xưa, phương tiện giao thông còn thô sơ, đi bộ, ngựa, hoặc thuyền, làm gì có xe bus, xe lửa, phi cơ như bây giờ. Chồng đi lính thú ở xa, việc đi thăm là thiên nan vạn nan; lại không có điện thoại viễn liên để lâu lâu tỉ tê tâm sự, do đó các nàng chinh phụ chỉ còn cách gặp chàng trong giấc mộng.
Bát Sách dẫn 2 bài thơ Đường nói về giấc mộng của những người vợ trẻ:
伊州歌-春怨 Y Châu ca - Xuân oán
打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼 Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西 Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
金昌緒 Kim Xương Tự
(Hãy đuổi con chim oanh vàng, đừng để nó hót trên cành cây. Khi hót nó làm kinh động giấc mơ của thiếp, làm thiếp không đến được Liêu Tây để gặp chàng)
Trong ấn bản ở Việt Nam, Thầy Trần trọng San mở đầu bài dịch bằng câu: “Đuổi giùm hộ thiếp con oanh”, Bát Sách rất thích. Trong ấn bản mới ở Canada, Thầy đổi lại như sau:
Đuổi giùm đi cái oanh vàng,
Đừng cho nó hót rộn ràng trên cây,
Làm tan vỡ giấc mơ này,
Thiếp không đến được Liêu Tây với chàng.
Bài này lời đẹp, tình ý nhớ nhung thật nhẹ nhàng, ngây thơ, Bát Sách đoán thiếu phụ còn rất trẻ, và con nhà giàu vì ngôn ngữ cử chỉ của nàng vừa nũng nịu, vừa quí phái. Giấc mơ của nàng cũng nhẹ nhàng như lời thơ, không có tha thiết, đam mê như nàng chinh phụ của Trương Trọng Tố trong bài Xuân khuê tứ:
春閨思 Xuân Khuê Tứ
裊裊城邊柳, Niểu niểu thành biên liễu,
青青陌上桑。 Thanh thanh mạch thượng tang,
提籠忘採葉。 Đề lung vong thái diệp,
昨夜夢漁陽。 Tạc dạ mộng Ngư dương.
張仲素 Trương trọng Tố
(Người chồng đồn trú tại Ngư Dương. Người vợ là một thôn nữ, ngày ngày ra đồng hái dâu nuôi tằm. Hôm nay một mình giữa thiên nhiên bao la, trước phong cảnh hữu tình, nàng lơ đãng quên cả công việc (hái lá dâu) lòng còn ngơ ngẩn vì giấc mộng đêm qua, được tới Ngư Dương gặp chàng ...)
Nỗi nhớ nhung của nàng đậm đà hơn, ray rứt hơn, có ngụ ý đến lòng chung thủy và cả tình chăn gối. Bát Sách mê bài này lắm và dịch như sau đây, mượn lời của Kiều và Chinh Phụ Ngâm:
Bên thành tơ liễu thướt tha,
Ngàn dâu xanh ngắt là đà trên nương,
Quên hái lá, dạ vấn vương,
Đêm qua mộng tới Ngư Dương gặp chàng.
Nàng chinh phụ của Trần Ngọc Lan thực tế hơn, không có mộng mị, nhớ thương vớ vẩn, mà thương chồng bằng hành động. Thấy gió tây lạnh lùng thổi, nàng may áo gởi ra biên cương cho chồng. Nàng viết thư mà lệ rơi tầm tã, chỉ sợ áo đến không kịp.
寄夫 Ký phu
夫戍邊關妾在吳, Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫 Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu,
一行書信千行淚, Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
寒到君邊衣到無? Hàn đáo quân biên, y đáo vô.
陳玉蘭 Trần Ngọc Lan
(Chồng làm lính thú tại quan ải biên thùy, thiếp ở đất Ngô. Gió tây thổi vào thiếp, thiếp lo lắng cho chồng. Một hàng thư, ngàn hàng lệ. Lạnh đã đến biên cương rồi, áo có đến không?)
Bài này ý tình chan chứa, thật cảm động, nhưng lời thơ thì không được mỹ lệ, bay bướm như mấy bài trước, do đó Bát Sách dịch thoát ý theo thể lục bát cho có vẻ Việt Nam :
Võ vàng em ở đất Ngô,
Anh đi gìn giữ cõi bờ xa xôi,
Gió tây thổi đến tơi bời,
Làm em lo lắng cho người quan san,
Viết thư mà dạ ngổn ngang,
Một hàng thư cả hàng ngàn lệ rơi,
Biên cương giờ đã lạnh rồi,
Áo kia biết kịp đến nơi cho chàng?
Người con gái chỉ có một thời xuân sắc, tựa như đóa hoa phù dung, sớm nở tối tàn ... sự chờ đợi làm da thêm nhăn, mắt thêm quầng, mái tóc bớt mịn màng, óng ả. Mối ưu tư chính của chinh phụ là sự lo sợ cho dung nhan tàn tạ ... Bát Sách xin dẫn 2 bài:
自君之出矣其二 Tự quân chi xuất hỹ kỳ 2
自君之出矣 Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機 Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月, Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝 Dạ dạ giảm quan huy
張九齡 Trương cữu Linh
(Từ khi chàng ra đi, thiếp không còn sửa sang khung cửi cũ, nhớ chàng như bóng trăng đầy, đêm đêm bớt dần ánh sáng.)
Lúc đầu đọc bài này, Bát Sách thấy ngang dạ vì cách ví von của tác giả: nàng nhớ chàng mà càng ngày càng giảm thì nguy quá, chẳng lẽ xa mặt cách lòng? Nỗi thắc mắc của Bát Sách được gia phụ giải thích như sau: Nàng chinh phụ lúc này đang độ xuân thì, xinh đẹp mỹ miều như trăng tròn. Nếu nàng phải sống cô đơn, mỏi mòn chờ đợi chinh phu thì nhan sắc của nàng sẽ dần tàn phai như mảnh trăng kia, mỗi ngày một khuyết... Nghe ra có vẻ hợp tình, hợp lý. Tại ông thi sĩ họ Trương làm thơ khó, hay tại Bát Sách lờ quờ? Có lẽ tại cả hai. Đây là bản dịch của Bát Sách:
Từ anh cất bước lên đàng
Từ anh cất bước lên đàng
Chiếc khung cửi cũ chẳng màng nhúng tay
Giờ em như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm thương nhớ hao gầy dung nhan.
Trong bài Khuê Tình của Lý Bạch, chinh phụ nói rõ ý hơn: Chàng đi xa em cô đơn, sầu muộn, đến nỗi dệt gấm mà lòng ngổn ngang, khêu đèn mà nước mắt chan hòa. Em tiều tụy đến nỗi soi gương không nhận ra mình, huống hồ khi chàng trở về, liệu có nhận ra em? Có còn yêu em như thuở trước? Đây là 4 câu cuối của bài thơ:
---
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban,
窺鏡不自識, Suy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.
閨情李白 Khuê Tình, Lý Bạch
Bát Sách dịch:
Ngồi dệt gấm, dạ ngổn ngang,
Khêu đèn mà lệ dâng tràn lung linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Ngày chàng trở lại, biết tình còn chăng?
Thành thật mà nói, những bài thơ Đường tuy rất hay, nhẹ nhàng, bay bướm và thơ mộng, nhưng không nói được những nỗi vất vả, sự hy sinh, cái tài đảm đang của người chinh phụ, đã thay chồng, một mình quán xuyến việc nhà ...Trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm, chỉ mấy câu mà nói lên được hết những nỗi nhọc nhằn của chinh phụ:
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân,
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Vả lại cái khổ của vợ lính đâu phải chỉ có sự cô đơn, vất vả, đâu phải chỉ có nhớ thương, đâu phải chỉ có lo nhan sắc tàn phai ... chiến tranh mãnh liệt và tàn khốc quá, tính mạng người lính như chỉ mành treo chuông. Cái khổ nhất của chinh phụ là nỗi thấp thỏm, hoang mang, không biết chồng mình nằm xuống lúc nào !! Khổ nhưng vẫn can đảm chịu đựng, và can đảm chấp nhận sự thật khi bất hạnh xảy đến cho chồng. Bát Sách xin ngã mũ trước những nàng chinh phụ Việt Nam.
Sống Chung Với Tuổi Già (Lương Thái Sỹ ), Nỗi Đau Lớn Nhất Của Tuổi Già..(Văn Chương/quinhon 11), (Gởi ai đã và sắp đến tuổi già.)
Sống Chung Với Tuổi Già
Ai cũng tới lúc già đi, hãy sẵn sàng “sống chung với tuổi già”.
“Ôi cái bụng bự của tôi”, “Dạo này cứ 3, 4 giờ sáng là thức”, “Giời ạ, cứ nhớ trước quên sau, hay bị mất trí nhớ rồi ta!”… Đó là dấu hiệu bạn đang bước vào quá trình lão hóa.
Sinh-lão-bệnh-tử, bình thường, ai cũng phải qua bốn bước. Vậy bạn phải chấp nhận tuổi già sẽ ập đến.
Bao nhiêu người trong chúng ta muốn có một hướng dẫn đáng tin cậy với bằng chứng cụ thể về quá trình lão hóa, khi cơ thể và tâm trí sẽ thay đổi theo tuổi già và cách thích ứng với “bình thường mới”? Đó là một thách thức lớn. Lý do, quá trình lão hóa làm thay đổi con người diễn ra dần dần qua nhiều thập niên và được định hình bởi hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi cá nhân; khu vực sống, cách sống và các yếu tố khác nữa.
Ngoài ra, dù chúng ta có các vấn đề sinh lý chung khi già đi, nhưng không theo cùng lộ trình mù mịt phía trước. Bác sĩ Rosanne Leipzig, phó Chủ tịch giáo dục tại Khoa Lão khoa và Y học Giảm nhẹ Brookdale tại Trường y Icahn School of Medicine ở Mount Sinai, New York, nhận định: “Những thay đổi có thể dự đoán được không nhất thiết phải xảy ra cùng lúc hoặc theo cùng một trình tự. Những người lớn tuổi là nhóm không đồng nhất nhất trong các nhóm tuổi khác nhau”.
Leipzig, 72 tuổi, đang dành ra toàn thời gian để giảng dạy nội trú và nghiên cứu sinh cũng như khám bệnh cho bệnh nhân vừa xuất bản cuốn sách mới: “Honest Aging: An Insider’s Guide to the Second Half of Life” được đánh giá là: “Cuộc kiểm tra toàn diện nhất về những gì sẽ xảy ra trong nhiều chục năm khi chúng ta già dần”.
Leipzig có hai mục tiêu khi viết hướng dẫn này. Thứ nhất là: “Để vượt qua tất cả những suy nghĩ tiêu cực về lão hóa”. Thứ hai là: “Để giúp mọi người hiểu rằng có rất nhiều điều người già có thể làm trong việc thích nghi với trạng thái bình thường mới để có cuộc sống chất lượng hơn và có ý nghĩa”.
Khi được hỏi tại sao tựa sách lại có cụm từ “Honest Aging” (Tuổi già trung thực), bà giải thích: “Bởi vì có quá nhiều thứ dạy cách thích nghi với tuổi già là không đáng tin cậy. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nên tự nhủ: Già đi chính là ‘mặc định’ của loài người và thừa nhận chúng ta thật may mắn khi có thêm được ngần ấy năm sống với tuổi già”.
Mức tăng tuổi thọ của con người là phi thường trong thời kỳ hiện đại. Với những tiến bộ trong y học và sức khỏe cộng đồng, số người từ 60 tuổi trở lên đông hơn rất nhiều so với đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, đa số chúng ta đều thiếu hiểu biết rõ ràng về những gì xảy ra với cơ thể mình trong một khoảng thời gian đôi khi rất dài sau tuổi trung niên.
Khi được hỏi, những câu hỏi nào người lớn tuổi thường hỏi nhất? Leipzig đưa ra một danh sách: Tôi có thể làm gì với cái bụng phệ này? Làm thế nào tôi có thể cải thiện giấc ngủ? Tôi gặp khó khăn khi nhớ tên và đây có phải là chứng mất trí nhớ? Tôi có thực sự cần nội soi hoặc chụp quang tuyến vú không? Tôi nên làm gì để lấy lại vóc dáng? Tôi có cần phải ngừng lái xe?”
Đằng sau những câu hỏi này là sự hiểu biết kém về những thay đổi ‘không thể tránh khỏi’ về thể chất và tinh thần mà tuổi già mang lại – bà nói và khẳng định – Các giai đoạn lão hóa không thể chia nhỏ theo từng thập niên. Những người ở độ tuổi 60 và 70 có sự khác biệt đáng kể về sức khỏe và chức năng.
“Thông thường, những thay đổi có thể dự đoán được liên quan đến quá trình lão hóa diễn ra nhiều hơn ở độ tuổi từ 75 đến 85”. Leipzig lên danh sách các vấn đề liên quan đến tuổi tác cần chú ý:
– Người lớn tuổi thường có các triệu chứng khác với người trẻ tuổi khi bị bệnh. Ví dụ, người lớn tuổi bị đau tim có thể khó thở hoặc lú lẫn thay vì đau ngực. Người lớn tuổi bị viêm phổi có thể bị ngã hoặc chán ăn thay vì sốt và ho.
– Người già thường phản ứng khác với người trẻ với thuốc và rượu. Do những thay đổi về thành phần cơ thể và chức năng gan, thận, ruột, người lớn tuổi nhạy cảm hơn với thuốc và thường dùng liều lượng thấp hơn, kể cả các loại thuốc sử dụng đã nhiều năm.
– Người già giảm dự trữ năng lượng. Khi tuổi càng cao, tim hoạt động càng kém hiệu quả; phổi chuyển ít oxy vào máu hơn và cần nhiều protein hơn để tổng hợp cơ. Khối lượng cơ và sức mạnh cũng giảm. Kết quả, người già có ít năng lượng hơn lúc còn trẻ, ngay cả lúc cần nhiều năng lượng hơn để làm các công việc hàng ngày.
– Đói và khát cũng giảm dần. Vị giác và khứu giác của con người giảm sút, khiến món ăn bớt sức hấp dẫn. Chán ăn phổ biến hơn ở người cao tuổi và người già dễ no hơn dù ăn ít hơn. Nguy cơ mất nước tăng lên.
– Nhận thức chậm lại. Người lớn tuổi xử lý thông tin chậm hơn và phải mất nhiều thời gian hơn để hiểu thông tin mới. Đa nhiệm cũng khó khăn hơn, phản ứng chậm hơn và khó tìm đúng từ (đặc biệt là danh từ) hơn. Những thay đổi về nhận thức do thuốc và bệnh tật xảy ra thường xuyên hơn nhưng đa số là bình thường và không phải dấu hiệu của bệnh mất trí nhớ.
– Hệ thống cơ xương kém linh hoạt. Do các gai ngắn lại, các đĩa đệm ngăn cách các đốt sống cứng hơn và bị nén nhiều hơn, người lớn tuổi thường giảm chiều cao từ 1 đến 3 inch. Khả năng giữ thăng bằng bị giảm do những thay đổi ở tai trong, não và hệ thống tiền đình (một hệ thống phức tạp điều chỉnh sự cân bằng và ý thức về cảm giác). Người già định hướng không gian đường phố kém dần. Các cơ ở chân, hông và mông suy yếu và phạm vi chuyển động của các khớp hẹp dần. Gân và dây chằng không còn khỏe nữa. Té ngã và gãy xương thường xuyên hơn do xương giòn hơn.
– Thị lực và thính giác thay đổi. Người già cần nhiều ánh sáng để đọc hơn người trẻ. Họ khó nhìn thấy đường viền của các vật thể hoặc khó phân biệt giữa các màu gần giống vì khả năng nhận thức về màu sắc và độ tương phản đã suy giảm.
Do những thay đổi ở giác mạc, thủy tinh thể và chất lỏng trong mắt, mắt sẽ mất nhiều thời gian hơn để thích nghi với ánh sáng mặt trời cũng như bóng tối. Do các tế bào lông ở tai trong bị tổn thương nên người già khó nghe hơn, đặc biệt là ở tần số cao. Cũng khó hiểu được câu nói nhanh, câu nói chứa nhiều thông tin hoặc nói trong môi trường ồn ào.
– Giấc ngủ rời rạc. Người lớn tuổi mất nhiều thời gian hơn để chìm vào giấc ngủ và thức giấc nhiều hơn vào ban đêm.
Để giảm nhẹ các ảnh hưởng trên, Leipzig đề nghị các điều chỉnh người già nên làm.
– Đừng bỏ qua những thay đổi đột ngột trong chức năng vận động mà cần tìm kiếm sự chăm sóc y tế.
– Mỗi lần đến gặp bác sĩ, hãy hỏi thuốc đang dùng liều lượng đã phù hợp chưa và có thể ngừng loại thuốc nào.
– Hãy chịu khó vận động thể chất nhẹ.
– Hãy chắc chắn đã ăn đủ chất đạm, uống đủ nước ngay cả khi không thấy khát.
– Giảm bớt đa nhiệm và làm việc theo khả năng của mình.
– Thực hiện các bài tập thăng bằng.
– Hãy kiểm tra mắt hàng năm.
– Dùng trợ thính nếu thấy khó trò chuyện.
- Không tập thể dục, uống rượu và ăn nhiều trong hai đến ba giờ trước khi đi ngủ.
Cuối cùng, “Đừng bao giờ nói ‘không bao giờ’ vì luôn có cách cải thiện tình trạng thể chất và tinh thần khi chúng ta già đi. Vấn đề là bạn phải luôn sẵn sàng sống chung với tuổi già,” Leipzig kết luận.
Lương Thái Sỹ (bài do bạn Bá Trần giới thiệu)
Nỗi Đau Lớn Nhất Của Tuổi Già..
Bảy mươi tuổi tôi mới hiểu: nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.
Tôi tên là María.
Năm nay tôi tròn bảy mươi. Con số tròn, nghe sang thật đấy, mà chẳng đem lại chút niềm vui nào. Cả cái bánh sinh nhật con dâu làm cũng nhạt thếch. Hay có lẽ tôi đã mất vị giác — với đồ ngọt lẫn với sự quan tâm.
Lâu lắm rồi tôi vẫn nghĩ: già nghĩa là cô đơn — một căn nhà im ắng, điện thoại chẳng reo, cuối tuần chẳng ai ghé. Tôi tưởng đấy mới là nỗi đau tệ nhất.
Bây giờ tôi biết: còn tàn nhẫn hơn cả khoảng trống, là một ngôi nhà đầy người nhưng mình bị vô hình.
Chồng tôi mất mười năm trước.
Bốn mươi năm bên nhau. Một người đàn ông mộc mạc, vững chãi. Ông sửa được cái cửa kẹt, nhóm được bếp lửa, và luôn tìm đúng một câu ngắn gọn để tôi thấy yên lòng. Ông đi rồi, chân tôi như đứng trên khoảng không.
Tôi ở lại với hai đứa con — Carlo và Laura. Tôi cho chúng tất cả. Không phải vì bổn phận, mà vì tôi chẳng biết yêu theo cách nào khác.
Chẳng có chuyến đi xa hay bằng cấp oách, nhưng tôi luôn có mặt: lúc con sốt, lúc làm bài, lúc gặp ác mộng. Tôi nghĩ tình thương rồi sẽ quay lại với mình.
Dần dần, những lần ghé thăm thưa hẳn.
— Mẹ ơi, con bận.
— Cuối tuần này cũng không được đâu mẹ.
Và tôi chờ.
Một ngày, Carlo bảo:
— Mẹ về ở với tụi con đi, cho mẹ có người bầu bạn.
Tôi xếp đồ. Cái mền tặng cô hàng xóm, cái ấm pha cà phê đem cho, cây đàn piano thì bán — rồi tôi về căn nhà rộng rãi, sáng sủa của con.
Ban đầu, dễ chịu lắm. Cháu trai ôm tôi, Laura rót cà phê cho tôi. Rồi mọi thứ đổi khác.
— Mẹ ơi, vặn nhỏ tivi lại.
— Mẹ ở trong phòng nhé, nhà có khách.
— Mẹ chưa bỏ đồ giặt chung với tụi con sao?
Và những câu nói cứ dính chặt lên tường:
— Tụi con mừng vì mẹ ở đây, nhưng đừng làm nhiều quá.
— Mẹ ơi, đây không còn là nhà của mẹ nữa.
Tôi cố giúp: nấu ăn, giặt giũ, trông cháu. Nhưng như thể tôi không tồn tại. Hoặc tệ hơn: tôi là gánh nặng.
Một đêm, tôi nghe Laura nói chuyện điện thoại:
— Mẹ chồng như bức tượng ở góc nhà. Có cũng như không. Thế lại… dễ cho mình hơn.
Đêm đó tôi không ngủ. Nhìn trần nhà và hiểu: người thân ở ngay bên, mà mình cô độc nhất đời.
Một tháng sau, tôi đi. Tôi nói có bạn rủ về quê ở chung.
— Mẹ đi vậy cũng tốt, Carlo đáp, nghe như thở phào.
Giờ tôi ở một căn phòng nhỏ ngoài rìa Granada. Tôi tự pha cà phê, đọc sách, viết những lá thư chẳng bao giờ gửi. Không ai chen ngang, không ai phán xét. Bảy mươi tuổi, tôi không mong gì nhiều. Chỉ muốn còn cảm thấy mình là một con người — không phải gánh nặng, không phải cái bóng.
Tôi đã hiểu:
Cô đơn thật sự không phải là sự im lặng của căn nhà.
Đó là khi những người mình yêu ở ngay gần, mà chẳng ai nhìn thẳng vào mắt mình.
Khi người ta chịu đựng mình thay vì lắng nghe.
Khi mình vẫn ở đó, nhưng đã bị coi như vô hình.
Tuổi già không nằm trên nếp nhăn.
Tuổi già là tình yêu bạn đã từng cho đi…
và còn ai cần đến nữa.
Văn Chương/quinhon 11
Gởi ai đã và sắp đến tuổi già.
Bài viết của một tác giả không nhớ rõ tên, có một nội dung quá thâm thuý, dành cho những ai trong tuổi Cao Niên nếu muốn có một đời sống hạnh phúc trong những ngày còn lại trên trần gian này, trước khi thân xác trở về cát bụi thì nên suy luận những điều được nêu ra trong bài viết này.
Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !
Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống.
Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…
Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.
Ta vẫn biết khi ta ra đời,ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo.
Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình.
Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.
Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .
Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.
Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt.
Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người.Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già
Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ.
Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rổi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…
Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gở bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nửa.
Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghỉ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.
Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.
Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghỉ đến đồng tiền, đừng nghỉ đến giàu hay nghèo nửa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền.
Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.
Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.
Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.
Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.
Đừng để tình thương trễ hẹn (ĐXT)
“Đừng để tình thương trễ hẹn”
Sau 21 năm chung sống, một buổi tối vợ tôi nói nhỏ nhẹ:
– Anh nên đưa một người phụ nữ khác đi ăn tối và xem ciné.
Tôi trố mắt. Cô ấy mỉm cười:
– Em yêu anh, nhưng em biết người ấy cũng thương anh, và bà đang mong mỏi được có một chút thời gian bên anh.
Người phụ nữ đó là má tôi, người đã mang nặng đẻ đau ra tôi. Má tôi là goá phụ đã 19 năm. Từ ngày ba mất, má sống một mình trong căn nhà nhỏ ở ngoại ô. Tôi bận bịu với công việc, với vợ và 3 đứa con, nên thỉnh thoảng lắm mới chạy qua thăm má một buổi.
Má tôi chẳng hề than thở, chỉ hay gọi điện hỏi vu vơ:
- “Thằng Tí, thằng Tèo, con Bông nó học có giỏi không con?” hoặc “Má nghe con bị cảm phải không?”
Thế là tôi nghe lời vợ, gọi má mời đi ăn tối. Má bắt máy lúc trời đã khá khuya, trăng thượng tuần đã treo ngoài cửa sổ:
– Có chuyện gì vậy con? Con bị bịnh hả?
Tôi bật cười:
– Không, con chỉ muốn mời má đi ăn tối với con, chỉ hai mẹ con mình thôi.
Bên kia điện thoại yên lặng một hồi lâu. Rồi má nhẹ nhàng đáp:
– Má muốn chớ. Má muốn dữ lắm.
Tối thứ Sáu đó, tôi ghé nhà đón má. Vừa bước xuống xe, tôi thấy má đứng chờ trước cửa. Má mặc chiếc áo dài màu tím nhạt, tóc uốn gọn, môi điểm chút son. Ánh mắt má sáng rỡ như con gái thời mới lớn.
– Má nói với mấy bà bạn là má sắp đi ăn tối với thằng con trai bảnh nhất xóm. Họ khoái lắm, đòi nghe má kể lại bữa ăn nầy.
Tôi đưa má ghé một nhà hàng nhỏ, không sang nhưng ấm cúng. Má khoác tay tôi như thể tôi là vị quan lớn đang dẫn mẹ đi dạ tiệc. Ngồi vào bàn, má mở thực đơn ra rồi đặt xuống, mỉm cười:
– Má già rồi, mắt mờ, đọc chữ nhỏ không thấy nữa.
Tôi cầm lấy tờ thực đơn, đọc từng món cho má nghe. Má ngước nhìn tôi, ánh mắt chan chứa yêu thương:
– Ngày xưa, má đọc thực đơn cho con ở quán cơm gà Siu Siu gần chợ An Đông. Bữa nay tới phiên con rồi hén.
Chúng tôi ăn uống và trò chuyện. Chuyện chẳng có gì quan trọng: vài mẫu tin trong nhà, mấy món thuốc cảm, mấy người bạn già của má… Nhưng với tôi, buổi tối đó có điều gì đó thật ấm áp, thật thân thương. Chúng tôi nói cười đến độ quên cả giờ đi xem phim như dự định.
Trên đường về, má siết tay tôi:
– Má muốn đi ăn tối với con một lần nữa. Nhưng kỳ sau cho má đãi nghe. Má mời.
Về tới nhà, vợ tôi hỏi:
– Tối nay vui không anh?
Tôi gật đầu, giọng nghẹn ngào:
– Vui lắm. Hơn cả những gì em có thể tưởng tượng.
Vài hôm sau, má tôi đột ngột ra đi vì cơn đau tim. Tin như sét đánh. Tôi chưa kịp mời má lần thứ hai. Chưa kịp nói với má hết những điều tôi cất giữ trong lòng bao lâu nay.
Ít lâu sau, tôi nhận được một phong bì từ nhà hàng hôm đó. Bên trong là tờ hóa đơn đã thanh toán, và một mảnh giấy nhỏ với dòng chữ xiêu vẹo quen thuộc:
“Má trả trước cho hai phần ăn – một cho con, một cho vợ con. Má không biết mình còn sống để đi nữa hay không, nhưng má muốn làm vậy. Con sẽ không bao giờ biết buổi tối đó có ý nghĩa đến dường nào với má.
Má thương con.”
Tôi cầm mảnh giấy áp vào ngực trái chỗ trái tim mà nước mắt tuôn không dứt. Lòng tôi trào dâng cảm giác vừa hối hận, vừa biết ơn, vừa thương đau đến nghẹn ngào.
Tới lúc đó, tôi mới thấm:
Trong cuộc đời này, có những điều phải làm đúng lúc vì lúc khác nhiều khi không bao giờ đến.
Nhiều người con – trong đó có tôi – thường biện hộ cho sự thờ ơ bằng cái cớ “bận quá”. Công việc, con cái, cuộc sống, bao thứ ràng buộc khiến ta bỏ quên một người phụ nữ già nua lặng lẽ ở cuối con đường tĩnh lặng, ngồi bên tách trà nguội ngắt, trông ra ngoài cổng mỗi chiều Chủ Nhật.
Chúng ta vội vã chạy theo bao điều gọi là “trách nhiệm”, mà quên rằng người mẹ già đâu cần gì cao sang, chỉ cần một cuộc gọi, một cái ôm, một buổi cơm chung.
Có những đứa con giờ đây thành đạt, chức tước đầy mình, nhưng mỗi lần về quê, gặp mẹ thì đứng ngoài sân gọi với vô:
– Má khỏe không? Con bận quá, ghé một chút rồi con đi liền.
Rồi đi.
Rồi mất má.
Rồi ngồi mà tiếc ngẩn ngơ.
Người Sài Gòn xưa thường nói:
“Mẹ còn là còn tất cả.”
Vậy mà mấy ai trân quý?
Một bó hoa ngày Vu Lan không đủ thay cho những tháng năm mẹ lủi thủi một mình.
Một lời chúc trên Facebook không đủ để xoa dịu tuổi già đơn chiếc. Và một lần về thắp nhang cũng không làm nguôi đi trái tim mẹ đã thôi đập vì thương nhớ.
Nếu bạn còn mẹ, đừng chờ lâu hơn nữa. Đừng viện lý do để hẹn “tuần sau”, “tháng sau”, “khi nào rảnh”… Thời gian không chờ đợi ai. Nếu bạn bận rộn với gia đình nhỏ của mình, hãy nhớ rằng bạn có được gia đình ấy cũng từ vòng tay mẹ.
Đừng để một ngày nào đó bạn cũng ôm một mảnh giấy có vài dòng chữ run run, rồi ngồi khóc như một đứa trẻ.
Hãy nắm tay mẹ đi ăn một bữa cơm. Hãy để mẹ chọn món. Hãy lắng nghe câu chuyện không đầu không đuôi mà mẹ hay kể. Hãy để lòng bạn mở ra, như cánh cửa cũ kỹ của căn nhà tuổi thơ, nơi có người mẹ đứng ngóng con về…
Mẹ và con.
Một chuyện tưởng bình thường, mà hóa ra là phép màu.
Đừng để tình thương trễ hẹn.
ĐXT
NHỮNG CÁNH HOA TRONG ĐỜI (Huỳnh Anh Trần-Schroeder)
Anh thương mến,
Ngày chúng mình mới yêu nhau, anh tặng em một cánh hoa hồng ngát hương. Và từ đó suốt thời yêu nhau anh vẫn mang hoa đến và gởi em những khi không trao tận tay được những cánh hồng rực rỡ từ lọai hồng đỏ như hồng Brigitte Bardot đến hồng gai Claudia Cardinale màu vàng nhạt hay hồng Ingrid Bergman, đủ màu, đủ hương vị khác nhau, có hồng hương đậm đà, có loại mùì thoang thoảng, nhưng loại nào em cũng quý, cũng nâng niu.Những cánh hồng vẫn đến đều những ngày sinh nhựt hay ngày lễ trong những ngày chiến tranh chưa lan tràn nhiều và anh vẫn còn bên em trong khung trời đai học. Có nhiều đêm anh trải gối mộng của em với nhánh cẩm lan thanh nhã, nhánh bông bụp, tường vi đơn sơ, hay cành hoa lài nồng nàn, tinh khiết. Anh thường cài hoa trên suối tóc của em bảo là để em mơn man hoa và nhớ người cài hoa. Ngày lễ vu quy, anh bảo má em hồng như anh đào giăng lối nhà và xe hoa. Biết em yêu hoa, anh luôn mượn dáng hoa để thêm đậm đà lời tình tự. Ngày tháng trôi nhanh trong những ngày hạnh phúc triền miên. Rồi cũng đến lúc quê hương cần tất cả mọi người và anh cùng những người trai yêu đất nước ra đi khăp các chiến tuyến, bưng biền, đầm lau sậy, đồng khô, rừng núi để giữ nhà và gia đình bình an.
Read moreSống Như Ngọn Nến Giữa Đời (Tỉnh Thức)
Bạn có bao giờ nghĩ rằng… có thể, chỉ một nụ cười hiền lành bạn trao đi hôm nay đã làm ấm lòng một người đang bên bờ tuyệt vọng? Có thể một sự im lặng đầy thấu hiểu của bạn đã ngăn một trận cãi vã đổ vỡ? Có thể một câu nói nhẹ nhàng của bạn là lý do để ai đó tin rằng cuộc đời vẫn còn những người tử tế?
Read moreChuếnh choáng (Lê Diễm Chi Huệ)
Đêm mơ một giấc huyền không
Hương trầm thoang thoảng giữa lòng phù vân
Đau thương bao thủa bao lần
Câu kinh nép chặt duyên trần xót xa
Người đi trẩy mộng sơn hà
Ta về đếm giọt mưa sa cuối mùa
Dùng dằng khuất lối mây khua
Nghiêng nghiêng lá rũ gió lùa giấc hoa
Ni-Liên vờn bóng nhạt nhoà
Nhấp nhô dòng nước sáng loà dưới trăng
Phù sinh vạn nẻo băn khoăn
Gội giòng tâm tưởng oặn lòng kiếp hoa
Hạc gầy chở giấc xuân qua
Thong dong soải cánh đậu toà Như Lai
Huyễn hư nửa giấc trang đài
Bàng hoàng chợt tỉnh tâm cài sắc không
Sương khuya ngự đỉnh cô phong
Oan hồn rên giữa thinh không tịch mờ
Ngậm ngùi châu quyện trúc tơ
Nhân sinh đứt đoạn dạt bờ tử sinh
Tóc huyền xoã lấp trang kinh
Mơ hồn hoá bướm tự tình cửa không
Người Việt ( dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài (Người Buôn Gió)
Người Việt ( dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài .
Chuyện người Việt Nam ra nước ngoài định cư ngày càng nhiều... đủ mọi hình thức lách luật để được chính thức ở lại như những trường hợp mà tác giả "Người buôn gió" đã viết lên.
Cũng có trường hợp có xảy ra ở Bruxelles, nơi này hiện tại nhiều người Việt sang đây với nhiều hình thức khác nhau. Chuyện lấy vợ, gả chồng là chuyện bình thường và cũng nhiều người đã làm...lại còn chuyện hắn biết giống như trường hợp được hợp pháp hoá giấy tờ như tác giả viết "Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Kiểu hợp thức hóa giấy tờ như thế này đã có xảy ra ở Bruxelles, được hợp lệ ở lại như là được cấp thẻ xanh còn đến khi nào được quốc tịch thì tính sau vì điều kiện vào quốc tịch ở Bỉ khó khăn hơn lúc hắn xin vào có nghĩa là phải đi làm full time có khai báo đầy đủ trong vòng 5 năm liên tục mới được nộp đơn xin.
Ngày càng nhiều những người ra đi như "dạng hái khế" (không phải người nghèo đi trốn lậu), đi theo dạng hái khế là một cách nói ám chỉ việc chết một cách bất ngờ, đột ngột hoặc không lường trước, giống như một quả khế chín rụng xuống đất mà không báo trước. Thành ngữ này xuất phát từ đặc điểm của quả khế là một loại trái cây chín và rụng bất cứ lúc nào hoàn toàn thể hiện sự ra đi đột ngột, bất ngờ, không báo trước, tương tự như cách quả khế tự rụng xuống .
Đọc bài viết để có một cái nhìn về đất nước và con người Việt Nam ngày hôm nay.
Ara
Người Việt đi nước ngoài
Đất nào sinh ra tôi
Mẹ hiền nào nuôi thân tôi
Miền nào nuôi thân tôi
Mà giờ này tôi xa rồi
Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.
Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.
Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.
Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.
Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam(việt cộng) , chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.
Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.
Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.
Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.
Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.
Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.
Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.
Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.
Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.
Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, sẽ đến Ba Lan tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.
Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ , chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.
Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.
Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.
Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường sá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.
Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.
Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.
Người Buôn Gió
TRĂNG TRUNG THU (Huỳnh Anh Trần-Schroeder)
TRĂNG TRUNG THU
Tha thướt Ngân Hà lụa mắc giăng,
Rừng sao cần ngọc đêm hoa đăng,
Gió nâng thuyền mây lung linh bóng,
Chân trời chìm nổi cánh sao băng.
Giữa lòng tinh tú sao ngọc ngà,
Vành vạnh khuôn trăng ngự thiên hà,
Lung linh thanh tú bao kiều diễm,
Đẹp nét mặn mà bóng trăng ngà.
Đêm nay trăng sáng trời vũ trụ,
Trăng đẹp huy hoàng, trăng trung thu,
Dịu dàng trăng rót giòng thanh tịnh,
Gơi tràn thi tứ giấc mộng du.
Thanh nhã an nhiên ngự vòm cao,
Gương trăng hòa nhã nét thanh tao,
Dù áng mây bay thoáng mịt mờ,
Trầm lặng trăng ngà chẳng ao dào,
Gương an hòa, chỉ nam thanh nhã,
Sáng vòm trời ân sủng bao la,
Người trần thế đi ngày dâu bề,
Quên chuyện trăm thăng chốn ta bà.
Như nghệ sĩ chọn hòa thanh nhã,
Nét dịu kỳ trong sáng bao la,
Đêm trần thế không buồn màn tối,
Ngắm vòm xa trăng rạng an hòa.
Hồn nghệ sĩ bay trời thi họa,
Tâm rộn ràng hát khúc nhã ca,
Vịnh thiên nhiên huy hoàng cành sắc,
Cảm thiên ân tình nghĩa bao la
Trăng còn rạng thiên thu vũ trụ,
Xuyên mây tầng sương phủ âm u,
Thì người hỡi thăng trầm đời sống,
Buồn mà chi một thoáng phù du!
1- TRĂNG TRUNG THU, TRĂNG MÙA GẶT HÁI ( Bài Tiếng Việt)
Đẹp chốn làng quê, trăng trung thu,
Vành vạnh khung trăng xóa mây mù,
Khi lúa vươn vàng, rừng thay lá,
Tâm trẻ rộn ràng, đón trăng thu.
Mừng mùa gặt hái về trên xóm,
Nương cao, ruộng thấp, ngát lúa thơm,
Thôn nữ chuyền tay, vun thúng lúa,
Đầy tay chàng gặt hái, nhánh gom.
Trăng bàng bạc, vòm cao trăng treo,
Nhà nông quên ngày tháng gieo neo,
Lòng vui nhìn lúa đầy xe kéo,
Nghe như ngàn hạt thánh thót reo.
Đêm thâu, rạng trăng mùa gặt hái,
Tầng cao, lướt gió đàn cò bay,
Lưng trâu, mục đồng thổi tiêu sáo,
Trẻ thả diều, bờ lúa lung lay.
Đầu làng, trẻ già bày thực phẩm,
Đón người từ đồng ruộng xa xăm,
Vịnh nhà nông dâng đời no ấm,
Tình đất, thiên ân, mưa nắng thâm trầm.
Tiết thu dịu dàng, đêm thanh nhã,
Man mác hồn chất phác nông gia,
Quên tháng ngày nhọc nhằn mưa nắng,
Cấy trồng cho lúa thắm hạt ngà.
Đèn thu giăng cành, treo nóc mái,
Hình hoa, rồng phượng, uyển chuyền bay,
Lung linh ánh nến xuyên giấy mỏng,
Họa vòng trên lối, suốt đêm dài.
.
Làng trên xóm dưới tranh tài nấu bánh,
Mồi lửa thấp cao cho chín bánh nhanh,
Nhồi tinh bột gạo, chọn tròn quả trứng,
Cần đò hạt nhân lòng bánh đậu xanh.
Vị bùi ngọt như tình trăng lưu luyến,
Mùi khác nhau tùy công thức gia truyền,
Nàng thanh nữ ước mơ đoạt giải nhất,
Chắc năm nay không thiếu đường tơ duyên.
Trẻ múa lồng đèn khắp làng trên, xóm dưới,
Trong mùa trăng rộn rã tiếng vui cười,
Cùng tranh giải lồng đèn ai đẹp nhất,
Đèn lung linh, đêm hạnh phúc, người thảnh thơi.
Tuổi măng tre, em lên năm, lên sáu,
Múa đèn trăng, hồng, trắng, đỏ hoa đào,
Phơn phớt tím nhung,vàng nâu hổ phách,
Như cánh liên hoa trải chốn hồ ao.
Bụng đầy bánh, áo màu hoa xúng xính,
Không gì vui như thuở đời băng trinh,
Xôn xao, em tưởng mình là công chúa,
Đêm hoa đăng bày yến tiệc linh đình.
Trăng vạn năng xin giữ tình thanh nhã,
Trở về đây trên làng xóm quê nhà,
Mỗi mùa thu mang chan hòa hạnh phúc,
Về tâm người, hồn trẻ rạng an hòa.
Khung trăng rạng vòm trời xanh quang đảng,
Vạt ngọc ngà lung linh sợi hào quang,
Trăng soi mình trên ao hồ gương bạc,
Đêm mùa thu trăng khoác áo dạ quang.
Vầng mây trắng họa sang vòng vương miện,
Cẩn sao trời lóng lánh hoa thiên nhiên,
Dòng sương ngọc vẽ tranh màu cầu móng,
Đẹp làm sao trăng như người thiên tiên.
Như khung trời cổ tích, chuyện thần tiên,
Trăng tròn khung hay sau mành ẩn hiện.
Trăng vẫn sáng nét cao sang quyền quý,
Hay đẹp màu mộc mạc chốn điền viên.
Khi tiết thu huy hoàng về phong cảnh,
Vầng trăng thu xin trở lại, trong lành,
Trăng nông gia hay thanh tình nghệ sĩ,
Tặng dòng đời hương sắc mùa an thanh.
Trăng thần thoại của nhiệm mầu thơ ấu,
Trong hồn ta trăng ngự khoảng dài lâu,
Tình không phai, không úa tàn vàng vỏ,
Đẹp diệu kỳ trong vũ trụ cơ cầu.
2- AUTUMN MOON, HARVEST MOON (English Version)
When the moon on roofs and branches hangs her silvery rays,
Her charming round face on my window playfully in display,
The air suffused with the gold and amber leaves sweet fragrances,
O, autumn moon, in trepidation, I embrace your return of splendorous appearance!
Happy is the harvest time on furrows of high plains and low fields!
Onto clattering panniers, the pretty maiden pour golden sheaves,
The men reap, pick, gather handfuls of long stalks, dainty silks,
Dancing gracefully in the flirting wind, whirl stems and leaves.
Farther than the eyes can see, under the full moon, the magical light,
Trundle wagons laden with the magnificent crops of the season,
Stroll mooing buffaloes, sweating of fatigue, cheering peasants, bursting of pride,
Among children flying kites on brightly lit muddy dikes.
At the entrance of the village where floats the aroma of fresh cooked rice and treats,
To honor the field workers, young and elders pile tables of sweets,
Thanking men and gods for the generous life subsistence,
Also Mother Nature for her bountiful benevolence.
The air bathes in the simple and delicate fragrances of the fall night,
Festive atmosphere pervades hearts and souls of my people, humble of expectations and desires,
Everywhere, everything speaks of the happiness of meriting rewards, deserving favors,
Out of sight and mind are the previous months of intense labor!
The trees and branches of the village are all decorated with bright paper lanterns,
Fashioned in images of flora and fauna of the beautiful nature.
Each family follows the traditional recipes to cook the moon cakes,
Offering various tastes and flavors,
Each more colorful in presentation, more exquisite in savor.
Maiden display their culinary skills, hoping for wedding bells in the near future,
Guys delight in the treats, enjoying their well-deserved break.
The children laughter mounts and resounds on every street corner,
Vying for the first prize of who will win the best moon festival lantern.
Prancing my paper lantern, pink, amber, mauve in colors,
Image of an unfolded corolla lotus flower,
Its well anchored candle flickering in the gentle breeze of the night.,
In the autumn lunar night, I feel an entitled princess of fairy light,
On the marches of the royal palace, offering ballroom festivities,
To all, children, flora, fauna, humans, divinities.
Belly full of moon cakes, laughter filling the night,
Nothing is more beautiful, or filled with more delight,
Than in this time of fairy tale childhood,
Under the festival moon of the fall, in the best of my fanciful mood.
Be omnipotent, be graceful, o moon of the fall,
Come back every year to bring us unparalleled happiness,
Celebrating the bountiful harvest, showering joy and laughter on children souls,
Granting humans and nature your essence of a muse and a goddess.
O moon, so beautiful, you hang in the night sky of sapphire,
You weave threads of opal on the Milky Way, paints pearly trails on the horizon,
On lakes and ponds, you shine your gorgeous reflection,
In autumn time, you display your skylight attire.
On your alabaster front, a few wandering clouds,
With shiny stars, fashion a bejeweled crown,
With the rainbow colors, on your silky cheeks,
The pearly dewdrops brush a canvas of exquisite landscape, at the autumn's peak.
Full moon of the mid-autumn, filled with mystery and humor,
Like in the fairytales of my fantastic childhood,
You marvel us with your bucolic charms, your even mood,
Friend and confidant of my magical childhood years.
Do return every year at the apogee of the fall season,
Goddess of beauty, muse of the gifted artist, angel and fairy,
Or simply as the queen of the harvest, benevolent divinity,
Lighten our skies of fantastic dreams and artistic inspiration!
In my heart of a child, you hold a very special place,
That nothing could take away or replace,
On the streams of life, you reflect your serenity,
Beautiful and full of grace, you dance to the rhythm of eternity.
3- LUNE D’AUTOMNE, LUNE DE RÉCOLTE (Version Francaise)
Quand la lune tisse ses raies d’argent sur toits et arbres d’alentour,
Son visage charmant tout rond, au-dessus de ma chambre,
L’air s’embaume des douces fragrances des feuilles d’or et d’ambre,
O lune d’automne, avec impatience, je célèbre ton retour!
Vive ce temps de récolte sur sillons des bas champs et hautes plaines,
Belles filles glanant gerbes dorées dans paniers cliquetants,
Beaux gars fauchant, cueillant, rassemblant à mains pleines,
Les hautes tiges dansant sur rythme gaillard du vent batifolent.
À perte de vue sous lune pleine, raies magiques,
Cheminent charrettes de récolte débordant de moisson magnifique,
Buffles beuglant de fatigue, paysans exubérants de fierté,
Parmi enfants flottant cerfs-volants sur digues illuminées.
Sur bord du village, monte l’arôme du riz à onctueuse fragrance,
Jeunes et vieux érigent tables de friandises pour honorer les travailleurs de champs,
Remerciant hommes et dieux des générosités de subsistance,
Ainsi que Mère Nature pour ses offrandes d’abondance et de bienfaisance.
L’air se baigne des douces effluves des nuits d’automne, parfums délicats et simples,
L’atmosphère de fête égaie âmes et cœurs de nos gens à mœurs humbles,
Partout règne le bonheur d’un temps de récompense,
Qui se souviendrait de ces mois d’auparavant de besogne intense!
Arbres et branches du village sont décorées de brillantes lanternes de papier,
À images de flore ou de faune façonnées.
Chaque famille cuit ses gâteaux de lune selon coutume et tradition,
Les uns des autres différents et distincts de flaveur et présentation.
Jeunes filles rêvent d’être lauréate du concours culinaire annuel,
Avec vœux de noce arrivant bientôt sur le seuil, sur promesse d’amour éternel.
Les rires des enfants dans tous coins montent et résonnent,
Rivalisant pour le premier prix de la plus belle lanterne d’automne.
Paradant ma lanterne de papier, rose, ambrée et mauve,
Image d’une fleur de lotus à corolle étagée, de couleur fauve,
À bougie clignotante bien ancrée sur centre de bois ciré,
Dans la nuit de fête lunaire, je me sens princesse attitrée,
Offrant festivités royales sur marches du palais illuminé,
À tous gens et créatures, flore, faune, humains, divinitées.
Ventre plein de friandises savoureuses, rire cascadant l’air fragrant,
Si heureuse comme on est dans ce temps de phantasme charmant,
Rien n'est plus beau ou débordé de contentement,
Que ce temps magique sous lune d'automne, dans ma plus avenante disposition de tous temps!
O belle lune d’automne, sois omnipotente, sois gracieuse,
Reviens chaque année pour nous apporter joie de vivre sur récoltes généreuses,
Célébrant subsistance pour tous, arrosant âmes d'enfants de rires et liesse,
Gratifiant humains et nature de ton essence de muse et de déesse.
O lune, si belle sur firmament de saphir,
Tu scintilles, de jets de nacre et d’opale,
Dans lacs et étangs, sur ondes azurées, tu te mires,
En temps d’automne tu sors ton apparat de bal,
Sur ton front d’albâtre quelques traînes de nuée
Te façonnent diadème d’étoiles incrustées,
Avec des couleurs d’arc-en-ciel, les perles de rosée
Peignent un beau canevas sur tes joues nacrées.
Lune d’automne, pleine et mystique,
Comme fée des contes fantastiques,
Tu nous émerveilles par tes charmes bucoliques,
Amie et confidente fidèle de mes années magiques.
Reviens, reviens chaque année, sur apogée d’automne,
Déesse de beauté, muse de l’artiste doué, ange et fée magique,
Ou simplement comme reine des saisons de récolte,
Illumines nos cieux de rêves fantastiques et d’inspiration poétique.
Dans mon cœur d’enfant tu gardes une place spéciale,
Que rien ne pourrait effacer ou pâlir,
Sur ondes du temps, sereine, tu te mires,
Belle et gracieuse tu demeures, sur rythme de cosmos intégral.
Huỳnh Anh Trần-Schroeder
BÙI GIÁNG MỘT BÀI THƠ LẠC VẬN (Nguyễn Đình Toàn)
Người ta nhìn thấy ở ông, rõ hơn, kiến thức của ông, tư tưởng của ông, như một hội tụ lớn của tư tưởng Đông Tây.
Người ta cũng nói đến ông như một người điên.
Nếu ai đã có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ: nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, vắt trên vai những miếng băng vệ sinh nhặt được ở đâu đó, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường, thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không có gì quá đáng.
Nhưng cũng người điên ấy, vai mang một tấm biển, đi rong qua các phố, trên tấm biển có những dòng chữ viết tay:
"Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Khi không anh bỗng nhẩy tưng lên trời"
Bỏ bùa cho sư (Gió ViVu)
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây?
(Khuyết danh)
Có người bảo rằng “Ba cô” trong bài thơ “Ba cô đội gạo lên chùa” chính là Tam độc: Tham, Sân, Si, trong thuyết pháp của Phật giáo. Chỉ cần có “một” trong “ba thứ độc” đó sẽ khiến người ta triền miên sống trong khổ hạnh……….
Read moreCÔ GIÁO VÀ CẬU HỌC TRÒ LỚP NĂM !
Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ.
Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu.
Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém).
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình làm chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được.
Cô giáo phụ trách lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau:
- "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh".
Cô giáo lớp 2 nhận xét:
- "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu".
Giáo viên lớp 3 ghi:
- "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ".
Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét:
- "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".
Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn.
Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xạm màu mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay.
Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô:
- "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa".
Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa.
Teddy viết:
- "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em".
Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em".
Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời".
Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn.
Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể.
Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất.
Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson:
- "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ".
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu:
- "Teddy, em nói sai rồi.Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chỉ biết thế nào là dạy học kể từ khi cô được gặp em".
( Sưu Tầm )
Y ĐỨC VIỆT NAM (dưới chế độ Cộng sản)
Bệnh Viện thì to nhưng tình người thì không còn có tại các bệnh viện ở Việt Nam ngày nay nữa!
Read moreKhóc ông Kớt
Nhà Văn Phan Nhật Nam
Năm 2017, ông được nhà văn Hữu Thỉnh mời về Việt Nam nhưng ông đã từ chối.
…..Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân Lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hóa, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975.. Tôi có thư nầy để trả lời mời gọi mà ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gởi đến cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là "Hòa Hợp Hòa Giải". Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẻ…….
Read moreMÁU VÀ HOA (Lê Đình Quang)
Dân chúng chạy trốn Việt Cộng
Với vũ khí tối tân của Nga và khối cộng.
Người dân Quảng Trị bồng bế nhau chạy giặc.
Giặc cộng.
Họ chạy về nơi có sắc áo Rằn Ri. Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa.
Hơn 50 ngàn người dân của 3 quận đầu của Tỉnh trong tổng số 230 ngàn dân Quảng Trị, bỏ nhà bỏ cửa trốn chạy giặc cộng.
Quân ta phải phá sập cầu Đông Hà, lui về phòng tuyến Mỹ Chánh.
Đoạn đường 10 cây số về Mỹ Chánh được gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng.
Thịt xương của những người dân chạy giặc biến thành một lớp xền sệt trên đoạn đường tử khí này.
53 năm trời đã trôi qua.
Bọn việt cộng ngụy tạo Lịch Sử. Bôi đen Lịch Sử.
Bọn bò đỏ,bọn trí thức ngụy biện cho tội ác này.
Chúng ta có thể ngồi yên sao?
Băn tới viên đạn cuối cùng. Viết cho cạn dòng mực máu trong tim.
Không thể nào để cho tội ác này chìm trong Lịch Sử.
Không thể nào để cho xương máu của những người Lính Việt Nam Cộng Hòa bị lãng quên.
Họ đã chiến đấu tới giọt máu cuối cùng cho nhiệm vụ Bảo Quốc An Dân
Read moreLỜI NGUYỆN CẦU TRONG TUỔI VÀO THU (Huỳnh Anh Trần-Schroeder)
1- LỜI NGUYỆN CẦU TRONG TUỔI VÀO THU
Hạnh phúc thay người sống an nhiên,
Không hận sầu, tiếc nuối, muộn phiền,
Nhưng mấy ai lòng đầy thanh thản,
Đời hoang sơ bởi nồi niềm riêng.
Đêm ray rức sầu ngày dĩ vãng,
Ngày mênh man buồn nối trái ngang,
Nắng ban mai chằng mang nồng ấm,
Khói sương chiều gợi sóng thương tang.
Đời thực tế thăng trầm biến đổi,
Chuyến thuyền trần chèo chống nổi trôi,
Thôi, buồn chi lỗi lầm quá khứ,
Khi biền đời tràn sóng dập dồi.
Đường thế trần còn nhiều mưa gió,
Tâm người trần còn lắm sân si,
Đầy áo vọng, mịt mờ vị kỷ,
Dập dìu không sắc chuyện nhỏ to,
Thôi thì thôi, ta thương thân phận,
Thương phận mình và kẻ tha nhân,
Trên sông thương xã lời tiếc nuối,
Tìm an bình về chốn tâm thân.
Mong thong dong khoảng đường còn lại,
Ngắm vầng dương xuyên màn sương mai,
Vịnh hoàng hôn rải vàng mặt biền,
Đêm mộng du tròn giấc nồng say.
Xin ơn trên ban lành duyên số,
Cho tâm an trên chuyến xô bồ,
Xóa hận sầu, xây đường quang đảng,
Nắng chan hòa khắp nẻo sông hồ,
Cho mênh man đuốc thiêng soi lối,
Ta thương đời như thuở vào nôi,
Thương nhân quần và thương thân phận,
Tuổi vào thu thôi dứt nổi trôi.
2- A HUMBLE PRAYER
Blessed and impossible is a person who lives with no regrets,
Of actions taken or not taken when they happen or did not happen!
Sad are missed occasions, missteps of a not enough thoughtful mind,
To be realized in the winds of afterwards recollection.
But so is real life, so is the imperfection of the mind,
But also not of worth is a life of regrets.
Understanding the human condition,
We acknowledge and accept its imperfections,
As part of the yins and yans of the universe in which we live,
As long as they are not products of malice,
We can try to forget and learn from our past mistakes,
Take another day of hope, another chance of rebuilding,
And go on with endeavors to make this world a better place to live.
So God help me,
Not to take anything with lightness of the mind,
Frivolity of an uncaring soul,
Not to dismiss big and small feelings of the heart,
Guide my path to light, show me wisdom and humility,
So to live with a clear conscience of the mind,
Charity of the heart,
In understanding and accepting my human condition,
On this tumultuous earth journey,
And with fortitude, with transcendence,
Look forward to an eternal life in the heaven of benevolence.
Huỳnh Anh Trần-Schroeder
