Văn Hóa Chửi Của Người Huế (Trần Văn Giang)

Văn Hóa Chửi Của Người Huế

Huế ngày xưa.

 Lời mở đầu

"Chửi" là một đề tài luôn thú vị và gây nhiều tranh cãi. Không phải ngẫu nhiên, "Chửi" là cái mà người ta dễ tiếp xúc và học nhanh nhất khi mới tiếp cận với một nền văn hoá. Ngày nay các phương tiện thông tin đại chúng như “internet,” truyền hình, phim ảnh... có phần lạm dụng hay tự nhiên hoá những từ ngữ tục tằn, dùng chúng như một tác nhân gây cười. Việc làm này là con dao hai lưỡi. Nó vô hại với những ai có đủ hiểu biết và bản lĩnh nhưng lại rất nguy hiểm cho giới trẻ mới tập tễnh vào đời, không được kèm cặp chặt chẽ; nhưng "Chửi" cũng là một nhu cầu tự nhiên để giải toả tâm lý, giải toả ức chế một cách nhất thời.  Như vậy liệu pháp "Chửi" có thể được xếp vào một loại... tâm lý học!
TVG

Hình như mọi người có lẽ đã nghe quen văn hóa chửi của người Bắc (Chửi mất gà) hay người Nam (chửi “Đồ mắc dịch”) rồi, bây giờ tôi xin phép được giới thiệu thêm một ít văn hóa chửi của người miền Trung, mà tiêu biểu là ở Huế, để rộng đường dư luận. Giữa đêm khuya thanh vắng, tự nhiên thấy thèm nghe những câu chửi ni mà không có ai ở đó chửi cho nghe (?)  Không lẽ tự mình đi... chửi mình để nghe cho đỡ nhớ Huế! Thật hết biết !!!

 Chửi, nói năng hồ đồ, tất nhiên không phải là một hành vi văn hóa. Nhưng dưới cái nhìn xã hội học, hành vi chửi lại có một văn hóa... chửi mới chết chứ! Vì chửi tồn tại hầu hết ở các nền văn minh từ cổ chí kim. Ở mỗi vùng, địa phương, dân tộc có một cách chửi khác nhau. Sắc thái và cấp độ nặng nhẹ của chửi thường thuộc về quan niệm. Cách chửi của miền Bắc khác cách chửi của miền Trung, miền Nam. Đây là cái khác của những lối sống, tập quán và ngôn ngữ địa phương.. v...v...

 Có lần ở đội bóng Thừa Thiên-Huế, các cầu thủ Huế đã dạy cho cầu thủ bạn người Camaron nói “Cảm ơn” tiếng Huế là “Mả cha mi.” Và cầu thủ này cứ cảm ơn mọi người bằng câu “Mả cha mi” cho đến khi biết là mình bị đồng nghiệp chơi xỏ. Đây có thể chỉ là một giai thoại nhưng giai thoại này đã phản ánh bản chất giàu văn hóa của chửi kiểu Huế.

Chửi kiểu Huế” có cái hay riêng của nó. Trước hết là cái hay của giai điệu. Nghe những câu chửi như “Mả cha mi,” “Đồ mi là đồ mi phá, ba mi về là ba mi la”...  quả là nghe như hát hay. Nếu một người ngoại quốc nghe một mệ Huế chửi thì rất có thể nhầm là Mệ đang hát một khúc điệu dân ca với những nốt nhạc hiện đại đồ-rê-mi-pha-son.

 Hay về giai điệu, chất nhạc, chửi kiểu Huế còn rất mực văn hóa ở nội dung chửi. Không có kiểu chửi chì chiết, tiếng bấc tiếng chì nặng nhẹ, riết róng, thóa mạ, mà chủ yếu là chửi yêu chửi nịnh, chửi lúc này là tỏ tình thương yêu. Một câu chửi như “Mả cha mi” người nghe còn hình dung như có kèm theo tiếng chửi là một cái bẹo má. Hay người mẹ Huế chửi con “Mi là đồ con tinh,” “Đồ con tinh le le,” là nói dzậy mà không phải dzậy. Có lẽ lời chửi có nội dung nặng ký nhất của xứ Huế là “Đồ vô hậu.” Điều này xuất phát từ sự chịu ảnh hưởng lâu đời của đạo Nho, xem không có con nối dõi là bất hiếu. Vì vậy khi người Huế chửi ai đó là “Đồ vô hậu,” là chửi vỡ mặt, chửi đến cùng. Nhưng chữ “Vô hậu” còn có nghĩa rộng của nó chứ không chỉ dừng lại ở nghĩa hẹp không có con nối dõi. “Vô hậu” còn là không có tương lai (như ở chữ mai hậu - mai sau, là tương lai). Chửi “mắng yêu” là một trong những sắc thái khá đặc sắc của văn hóa chửi kiểu Huế. Vì vậy rất khó diễn đạt trên giấy mà phải là trong ngữ dụng của nó mới có thể hiểu hết các sắc thái nghĩa của một câu chửi cụ thể. Khó có thể mô tả lại câu chửi “À cái mặt coi hay chưa tề” nếu như không được nghe từ một hoàn cảnh nhất định. Con gái Huế thường chửi hay hơn con trai, đàn bà chửi hay hơn đàn ông, người già chửi hay hơn người trẻ, nông thôn chửi hay hơn thành thị... Cái hay hơn ở đây là vốn chữ để chửi phong phú hơn và cách chửi dễ chịu hơn. Từng là cái nôi của trung tâm văn hóa, người Huế thích ăn nói văn hoa, sử dụng nhiều từ Hán Việt cho nên chửi kiểu Huế cũng nằm trong tầm ảnh hưởng này. Một kẻ đa nghi sẽ bị chửi là “Đồ đa nghi như Tào Tháo.” Có biết nhân vật Tào Tháo trong Tam Quốc Chí như thế nào thì mới hiểu được nghĩa của lời chửi. Cách dùng các điển cố, điển tích trong nội dung chửi đã làm nhẹ đi sắc thái đụng chạm của lời chửi, đó là một cách “chửi vòng” rất văn hóa mang đặc trưng kiểu Huế. Đại loại ta chửi mà mi không biết, thâm sâu đó mà nhẹ nhàng, không gây hấn, thúc bách đẩy người bị chửi đi đến chỗ nổi cục nổi hòn, xô xát làm hư việc.

 Câu chửi của người Huế thường hay bắt đầu từ chữ “Đồ” như một tiếp đầu ngữ. Tính chất định tính chứ không phải là định lượng của chữ “Đồ” làm người bị chửi “hoang mang” một cách dễ chịu. Có thể hiểu câu chửi nặng sau đây “Mi là đồ chó,” nghĩa là “Đồ chó” chứ không phải là “Chó.”  Dường như ở một số vùng của miền Trung cũng có kiểu chửi này nhưng không đặc trưng như ở Huế.

 Dù muốn hay không thì hành vi chửi vẫn cứ tồn tại một khi còn có con người. Vì vậy tìm một nét văn hóa trong hành vi chửi kiểu Huế chính là để nhận thức sâu hơn điều gì ở nền tảng văn hóa đã tác động đến hành vi đó, làm cho chửi trở thành một lời mắng yêu. Tức tối đó mà dịu dàng đó, chửi mà không mạ lỵ, tục mà thanh tao, Và nếu chửi là một lời mắng yêu, lời khen phi văn bản thì tại sao chúng ta lại không mong ước được nghe chửi suốt ngày?

 Vâng, người Huế, nhất là mấy O, mấy Mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa . . . làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì "tụng" mới phê! Cái phong cách nói lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.

 Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm. Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ: “Cái con nớ, lanh cha lanh chanh!” “Mấy mụ O giọn (nhọn) mồm” tức là “Mấy bà chị chồng mỏng mép” hoặc đôi khi chê em dâu: “Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè” có nghĩa là “Sao mà nó vô phép quá vậy!

 Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: “xanh lè lè,” “đỏ lòm lòm,” “đen thùi thui,” “vàng khè khè,” “tím giắt giắt (tím ngắt) “...

 Bởi, “Cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn!” Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể! Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy O ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: “Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai.

 Một bà mẹ mắng cô con gái hay một bà chị cả giảng “mô-ran”cho cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình: “Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa. Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan!

 Cái "thông điệp" cho thằng em trai thì: “Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò; chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép. Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được?!

 Mấy Ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình, chẳng hạn: “Đó, mi thấy đó: Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ!

 Lời kết

 Tôi tin rằng chửi luôn gắn liền với sự tồn tại của xã hội loài người. Chửi không hẳn là chỉ có mặt xấu mà cách người ta dùng nó mới thật sự xấu xa.

 Nếu các bạn nào đã có dịp tiếp xúc với văn hoá nước ngoài nhiều sẽ nhận thấy cách Chửi thay đổi rất nhiều tuỳ theo vùng văn hoá. Ví dụ như dân châu Âu Chửi không "khéo" bằng dân châu Á. Dân châu Phi chửi không "đau" bằng dân Nam Mỹ... Đại loại là như thế.

 Nhưng đã gọi là Chửi thì nhất định không thể xếp vào cách ứng xử "lịch sự" hay tinh tế. Khi người ta đã phải dùng đến chửi có nghĩa là thật sự đã hết cách rồi. Quay về với cái gọi là "văn hoá chửi" của người Việt nam. Có lẽ không còn chữ nào chính xác hơn là hai chữ "cay nghiệt" để diễn tả nỗi đau về tinh thần mà người bị chửi phải chịu đựng.

 Có ai "thắng" trong một cuộc chửi nhau tay đôi không? Câu trả lời là: “Có và Không.”   trong trường hợp "vốn chửi" của hai bên không cân bằng hay tính cách cá nhân không tương đương - Ví dụ: một bên nhát, bên kia dữ dằn. Không trong trường hợp hai bên cùng chửi giỏi, giỏi cả về tâm lý. Không cũng còn nằm trong trường hợp gặp kẻ cao tay hơn không thèm chửi lại! Dĩ nhiên khái niệm "thắng/thua" luôn có nghĩa tương đối.

 Trong hai hình thức chửi, thì việc chửi "như tát nước" không để lại hậu quả nghiêm trọng bằng cách chửi "thâm nho." Ta không nên chỉ nhìn nhận Chửi như một cái gì đó "xấu xa,” chối bỏ và không muốn hiểu nó. Trái lại, việc hiểu biết về chửi rất cần thiết trong cuộc sống vì nhiều lý do:

 - Ta cần biết cái lợi/hại của chửi để hạn chế nó.
- Ta cần biết chửi để không sợ bị...  chửi.
- Chửi cũng là một phần của cuộc sống.

 Tôi xin mượn bài “Ca Dao Chửi” để kết thúc bài viết này:

 Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà chửi cho vừa lòng nhau
Đã chửi, phải chửi thật đau
Chửi mà hiền quá còn lâu nó chừa
Chửi đúng, không được chửi bừa
Chửi cả nhà nó, không thừa một ai
Khi chửi, chửi lớn mới oai
Chửi hay là phải chửi dài, chửi lâu
Chửi đi, chửi lại mới ngầu
Chửi nhiều cho nó nhức đầu, đau tai
Chửi xong nhớ nói “bai bai”
Phóng nhanh kẻo bị ăn chai vào đầu

“Giáo Dục Lòng Căm Thù” – Một Bi Kịch Của Nền Giáo Dục Hậu Chiến.( Phạm Tín An Ninh)

……..Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”. Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ. Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ  tổ tiên dạy con cháu “căm thù”.

…..Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”. Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.

Read more

Người Việt ( dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài (Người Buôn Gió)

Người Việt ( dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài .

Chuyện người Việt Nam ra nước ngoài định cư ngày càng nhiều... đủ mọi hình thức lách luật để được chính thức ở lại như những trường hợp mà tác giả "Người buôn gió" đã viết lên.

Cũng có trường hợp có xảy ra ở Bruxelles, nơi này hiện tại nhiều người Việt sang đây với nhiều hình thức khác nhau. Chuyện lấy vợ, gả chồng là chuyện bình thường và cũng nhiều người đã làm...lại còn chuyện hắn biết giống như trường hợp được hợp pháp hoá giấy tờ như tác giả viết "Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Kiểu hợp thức hóa giấy tờ như thế này đã có xảy ra ở Bruxelles, được hợp lệ ở lại như là được cấp thẻ xanh còn đến khi nào được quốc tịch thì tính sau vì điều kiện vào quốc tịch ở Bỉ khó khăn hơn lúc hắn xin vào có nghĩa là phải đi làm full time có khai báo đầy đủ trong vòng 5 năm liên tục mới được nộp đơn xin.

Ngày càng nhiều những người ra đi như "dạng hái khế" (không phải người nghèo đi trốn lậu), đi theo dạng hái khế là một cách nói ám chỉ việc chết một cách bất ngờ, đột ngột hoặc không lường trước, giống như một quả khế chín rụng xuống đất mà không báo trước. Thành ngữ này xuất phát từ đặc điểm của quả khế là một loại trái cây chín và rụng bất cứ lúc nào hoàn toàn thể hiện sự ra đi đột ngột, bất ngờ, không báo trước, tương tự như cách quả khế tự rụng xuống .

Đọc bài viết để có một cái nhìn về đất nước và con người Việt Nam ngày hôm nay.

Ara

 

Người Việt đi nước ngoài

 

Đất nào sinh ra tôi

Mẹ hiền nào nuôi thân tôi

Miền nào nuôi thân tôi

Mà giờ này tôi xa rồi 

Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.

 Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.

Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.

 Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.

 Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam(việt cộng) , chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.

Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.

 Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.

Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.

 Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.

Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.

 Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.

 Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.

Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.

 Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, sẽ đến Ba Lan tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.

 Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ , chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.

Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.

 Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.

 Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường sá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.

 Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.

Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.

Người Buôn Gió