HÁT XẨM
Xẩm là môn nghệ thuật ca hát dân gian đặc trưng của Việt Nam. Xẩm có những giai điệu trầm buồn hòa hợp giọng hát với nhạc cụ một cách nhuần nhuyễn để truyền tải những chuyện rất thú vị về tình yêu và cuộc đời.
Lời ca của Xẩm khởi đầu là những vần thơ lục bát và song thất lục bát được phổ vào những điệu nhạc dân gian và được trình diễn trên đường phố, chợ búa, đình làng… nói chung là những chỗ đông người qua lại. Sau này xẩm còn sử dụng nhiều làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Việt như trống quân, cò lả, hát ví, ru con, quan họ, bồng mạc, sa mạc, nói chung là tất cả những bộ môn thi ca nào có thể “xẩm hóa” được.
Nghệ sĩ Xẩm khởi thủy là những người nghèo khó, tật nguyền (mù, què) kiếm sống bằng nghề ca hát. Khán thính giả của họ là những dân quê sống trong thôn, làng, huyện, phủ, sẵn sàng bố thí dăm ba xu sau ít phút đứng nghe họ hát.
Vài hình ảnh của những ban hát xẩm thời cổ:
Xẩm mù ở lề đường. Xẩm hát ở đầu chợ Dân quê ngồi nghe xẩm.
Nghệ sĩ Xẩm danh tiếng Hà Thị Cầu của thế kỷ 20.
Cuối thế kỷ 20 Xẩm bành trướng ra đô thị và trở thành một môn nghệ thuật sân khấu hiện đại giống như Chèo.
Vài hình ảnh của những ban hát xẩm ngày nay:
Ban hát Xẩm của Câu lạc bộ Hà thành
Hát Xẩm trình diễn trên sân khấu.
Một khán giả ngồi nghe hát Xẩm ở thành phố; thỉnh thoảng lại thưởng tiền vào cái đĩa để bên cạnh.
Nguồn gốc của Xẩm:
Xẩm bắt nguồn từ 700 năm thời Nhà Trần, lưu truyền qua những tỉnh Bắc Giang, Hà Đông, Hải phòng, Ninh Bình (nơi sinh của ÔC), Thanh hóa…Rồi trải qua bao nhiêu thăng trầm, cuối cùng vào tới Nam Kỳ sau khi được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia cần được bảo tồn trong thập niên 2020.
Có truyền thuyết kể rằng vua Trần Thánh Tông, có hai người con trai là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Trần Quốc Toán muốn tranh giành quyền lực, nên đã hại Trần Quốc Đĩnh khiến ông ta bị mù loà và bỏ vào trong rừng sâu.
Vì đau buồn, ông Đĩnh chỉ biết khóc than đến khi gặp được một bụt trong giấc mơ, hướng dẫn cách làm cây đàn từ dây thừng và que nửa. Khi tỉnh dậy, ông ta làm theo và thật kỳ diệu, cây đàn đó có thể phát ra âm thanh thần kỳ, khiến chim muông mang đến hoa quả cho ông ta ăn. Về sau, Trần Quốc Đĩnh đi dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị, dù ông được cha đưa về cung nhưng vẫn không quên truyền dạy lại cho người đời.
Ông Đĩnh được coi là ông tổ của nghề hát Xẩm. Tuy nhiên, đây chỉ là một câu chuyện hư cấu, không có sử sách nào ghi chép hai hoàng tử có tên như vậy. Theo các tài liệu nghiên cứu (kể cả Wikipedia), hát Xẩm ra đời vào khoảng thế kỷ 14-15 (tức là những năm 1500-1600), ban đầu được gọi là hát rong, hát dạo của người nghèo và người mù.
Những đặc điểm của Xẩm
- Những hình ảnh của người dân nghèo khổ, người khiếm thị ôm cây đàn hát Xẩm để kiếm sống đã trở thành biểu tượng đặc trưng cho loại hình nghệ thuật này.
- Nội dung của các bài Xẩm thường phản ánh chân thực cuộc sống và xã hội trong từng thời kỳ cụ thể.
- Để biểu diễn một bài Xẩm, nghệ nhân phải thành thạo việc chơi nhạc cụ, hát và chơi nhạc phải hài hòa với nhau, tạo nên một sự hoà quyện đẹp mắt.
- Hát Xẩm đòi hỏi một kỹ năng biểu đạt cảm xúc cao, nghệ nhân phải thể hiện được tâm trạng của nhân vật qua từng tiếng hát và chơi nhạc cụ.
- Xẩm thường có yếu tố thơ ca; nhiều bài Xẩm diễn thơ của các nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính.
- Nghệ thuật hát Xẩm được coi là trung ca tức là một loại âm nhạc nói về trung hiếu lễ nghĩa.
Các làn điệu trong nghệ thuật hát Xẩm (Cho tới tuổi 20, ÔC đã thưởng thức live hầu hết những làn điệu này cả ở vùng thôn dã và thành thị).
- Làn điệu Xẩm chợ: Là một trong những điệu Xẩm được biểu diễn ở những góc chợ với giai điệu ngắn gọn, giản dị, có chút hóm hỉnh để thu hút nhiều người nghe.
- Làn điệu Thập ân: Được gọi là Xẩm thập ân, thể hiện chữ Hiếu trong xã hội. Nói về việc ghi nhớ 10 điều khắc ghi công ơn của cha mẹ từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành. Lời và nhạc của Thập ân giàu cảm xúc, dễ chạm tới tim của người nghe.
- Làn điệu Phồn Huê: Thể hiện sự đồng cảm của nghệ nhân hát với phụ nữ thời phong kiến; nội dung thuật lại những đau khổ, tủi nhục mà người phụ nữ phải chịu đựng; chỉ trích thói xấu của chồng, xã hội.
- Điệu Riềm Huê: Còn được biết là Xẩm Huê Tình, thường có tiết tấu tươi vui kết hợp với giai điệu trống cơm giúp nghệ nhân hát truyền tải được rất nhiều màu sắc của tâm tình tâm. Nói về tình yêu đôi lứa, trào phúng, châm chọc thói hư tật xấu thời bấy giờ.
- Điệu Chênh Bong: Mang nét trữ tình, duyên dáng kết hợp sự vui tươi, nhiệt huyết của tình yêu đôi lứa tuổi mới lớn, cập kê.
- Điệu Hò bốn mùa: Còn gọi là Hò khoan, được biểu diễn bởi 1 tập thể. Chúng được dùng trong công việc của nông dân, hát hò trong những lúc cày cấy để nâng cao tinh thần. Sau này khi du nhập ra phố thị thì các nghệ nhân biểu diễn đã biến tấu đi để phù hợp hơn.
Nội dung, ca từ trong hát Xẩm
Nghệ thuật hát Xẩm là một hình thức kết hợp giữa hát và kể chuyện, thể hiện những câu chuyện mang tính tự sự. Các bài hát Xẩm thường được truyền miệng và không có tác giả cụ thể, tập trung vào các chủ đề thể hiện tâm tư, khát vọng của nông dân, thị dân (nhất là phụ nữ) trong xã hội phong kiến cũ.
Ngoài ra, các bài Xẩm cũng phản ánh suy nghĩ của xã hội trước nhà nước thời kỳ đó.
Ngoài các chủ đề trên, cũng có nhiều bài hát Xẩm nói về tinh thần lạc quan, tình yêu đôi lứa đẹp đẽ và sự cảm thông của các tầng lớp dân nghèo, luôn tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn và biết ơn dưỡng dục của cha mẹ.
Ca từ trong hát Xẩm được rút tỉa từ ca dao, tục ngữ và dân ca của miền Bắc Việt Nam. Các bài thơ lục bát, lục bát biến thể với tiếng láy và tiếng đệm được sử dụng để làm lời hát của Xẩm. Nghệ thuật này tập trung vào sự dung hoà và dễ hiểu với mọi người, phù hợp với năng khiếu của người biểu diễn.
Xẩm luôn mang đến những thông điệp phản ánh thời cuộc, giống như một kênh thông tin bằng âm nhạc.
Nhạc cụ sử dụng trong hát Xẩm
Ban đầu, nghệ thuật hát Xẩm chỉ sử dụng duy nhất một chiếc đàn nhị để độc tấu, và nghệ nhân sẽ vừa kéo nhị vừa hát. Nhưng theo thời gian số lượng nghệ sĩ gia tăng, nhạc cụ sử dụng trong Xẩm cũng được phát triển phong phú hơn. Những nhạc cụ khác dần dần được thêm vào: sênh, trống, phách, đàn bầu, đàn gáo, thanh la, đàn đáy và trống cơm.
Một số câu lạc bộ Xẩm nổi tiếng tính đến hiện nay bao gồm:
Câu lạc bộ xẩm Hà Thành (Hà Nội), câu lạc bộ xẩm Hải Thành (Hải Phòng), câu lạc bộ xẩm chợ Đồng Xuân (Hà Nội), câu lạc bộ xẩm Yên Nhân (Yên Mô, Ninh Bình), và một số câu lạc bộ Xẩm khác tại Quảng Ninh, Nam Định, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Thanh Hóa.
Mời nghe một bài hát Xẩm (rất hiếm) thu đước từ Nghệ nhân Xẩm cuối cùng của thế kỷ 20: Bà Hà Thị Cầu: 3’47”
Xẩm Huê Tình - hathicau comYouTube · Mai Đức Thiện9.4K+ views · 11 years ago
Tiểu sử Hà Thị Cầu:
Bà tên thật Hà Thị Năm (Cầu là cách gọi theo tên con trai ở vùng Yên Mô, Ninh Bình). Theo một số nhận định, bà sinh năm 1917, tuy nhiên theo chị Mận, con gái của bà, thì bà sinh năm 1928 tại huyện Ý Yên, tỉnh nam Định trong một gia đình 3 đời hát xẩm. Cha bà là một người hát xẩm bị khiếm thị. Năm 11 tuổi, cha mất và bà cùng mẹ rời Nam Định về sinh sống tại thôn Quảng Phúc, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Khoảng 8 tuổi, bà đã bê chiếc thau đồng theo bố mẹ lê la khắp các chợ quê để hành nghề hát xẩm kiếm sống. Định cư tại Yên Mô, Ninh Bình, hai mẹ con bà nương nhờ học hát tại nhà ông trùm xẩm Chánh Trương Mậu khi đó hiện là trưởng sáu gánh hát ở Ninh Bình. Năm 16 tuổi, bà trở thành người vợ thứ 18 của ông trùm xẩm Nguyễn văn Mậu (biệt danh là Chánh Trương Mậu). Năm đó ông Mậu 49 tuổi, từng chung sống với 17 người đàn bà, trong đó có 8 bà chính thức. Khi bà 33 tuổi thì ông Mậu qua đời, để lại cho bà 7 người con; sau thì 4 người lần lượt qua đời vì bệnh đậu mùa. Con rể bà làm nghề đánh cá, còn con gái buôn bán rong các chợ Bút, chợ Nam Dân, chợ Ninh (quê của ÔC) ở Ninh Bình.
Vợ chồng bà có mảnh đất từ trước 1945. Năm 1954, khi về định cư tại Yên Mô thì gia tài chỉ có hai cái niêu, một dùng để rang và một dùng để nấu. Từ nhỏ, bà đã hát xẩm (giọng xẩm của bà rất đặc biệt) nhưng lại không biết làm nghề gì khác nên đời sống rất nghèo khổ (tiền bố thí của thính giả Xẩm rắt nhỏ mọn vì chính họ cũng nghèo). Vì nghèo nên bà đã mất một người con sơ sinh còn một người nữa thì phải đem cho lúc vừa sinh (khi gần chết, bà mới đoàn tụ với người con này).
Bà mất ngày 3 tháng 3 năm 2013 tại nhà riêng nơi bà sống tại xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, không lâu sau lễ mừng thọ 85 tuổi trong cảnh cực kỳ nghèo túng.
Bà được Nhà Nước đặc biệt ca ngợi nhưng không được trợ cấp tài chính trong suốt 70 năm phục vụ nhân dân và nghệ thuật. Đáng thương vậy thay!
